Vụ mất tích trẻ em đầu tiên xảy ra vào ba tháng trước.
Nạn
nhân số một là đứa bé chịu trách nhiệm phát thư trong làng, sống ở gần ngọn
tháp hải đăng. Ngoài tòa thành Babel ra thì ngọn tháp này có thể được coi như
một biểu tượng trong vùng, mà trong vùng cũng chỉ có hai người giao thư là ông
cụ Joseph và đứa bé đó, thế nên dù không iết tên nhưng chỉ cần nhắc tới nó là
mọi người sẽ nhớ ra ngay.
Đứa
bé mất tích ba ngày rồi trở về mà không ai biết, chỉ có ông cụ Joseph mắt mờ
chân chậm lo sốt vó nhờ những người quen đi tìm. Chẳng qua, sau khi về nhà rồi,
nó lại có vẻ ngơ ngác, chậm hiểu hơn bình thường, nếu không phải nó vẫn ăn uống
khỏe mạnh bình thường thì cụ Joseph đã tưởng nó bị bệnh.
Đứa
bé thứ hai là con gái của một gia đình ít người, cha mẹ của đứa bé này đã đi
đến xứ khác làm ăn, thỉnh thoảng mới về nhà một lần, đứa bé sống với nhà dì.
Nhưng sau khi nó mất tích, dì cũng không đi tìm, chỉ tưởng nó bỏ nhà đi sau
trận cãi nhau với gia đình mà thôi. Mãi đến khi cha mẹ đưa bé về thăm thì mọi
chuyện mới vỡ lỡ, và cũng như nạn nhân đầu tiên, bé gái này trở về sau ba ngày.
Nạn
nhân thứ ba là nhỏ nhất, nhỏ hơn cả hai nạn nhân đầu tiên, mất tích vào lúc đi
học, sau khi tan lớp thì phụ huynh không tìm được con, đổ lỗi cho trường học
không làm tròn trách nhiệm. Đến tận lúc này thì những vụ mất tích mới bị vạch
trần, cũng khiến người dân cảnh giác hơn.
Thế
nhưng cứ đều đặn hàng tuần, tuần nào cũng có trẻ con mất tích, đến nay thì tình
trạng này cũng đã kéo dài được ba tháng.
“Vậy
là có mười hai đứa trẻ mất tích rồi sao? Nhưng trong hồ sơ chỉ ghi là mười một
thôi…”
“Không,
tuần này mới là tuần thứ mười hai.”
Người
đàn ông trung niên vùi tay vào túi áo, dưới cái lạnh cắt da của mùa đông, ông
ta không muốn ở đây trả lời câu hỏi của cánh nhà báo chút nào nhưng họ đeo bám
ông ta suốt từ sáng đến giờ rồi: “Tòa soạn của các người có trả thù lao cho
người cung cấp thông tin không?”
Ông
ta vươn hai ngón tay chà xát vào nhau ra ám hiệu, nhưng ba người đi đối diện
lại lắc đầu. Chán nản, người đàn ông quay người bỏ đi: “Còn không bằng điếu xì
gà của hai tên oắt kia!”
“Hai
tên oắt nào?” Một phóng viên giữ ông ta lại, nhíu mày: “Ngoài bọn tôi ra còn có
ai hỏi về câu chuyện trẻ em mất tích này sao?”
“Có,
hai thằng nhóc… áo đen.” Ông ta cố gắng nhớ lại gương mặt của hai người nọ,
nhưng không làm sao nhớ ra được, chỉ có ấn tượng là trông bọn họ khá ưa nhìn.
Lạ thật, ông ta không phải người hay quên, huống hồ người đẹp như thế thì dù là
nam hay nữ, cũng sẽ in sâu vào đầu óc người đối diện thôi.
Nhưng
bây giờ nhớ lại, đường nét trên gương mặt họ như những mảng màu nhạt nhòa pha
trộn vào nhau, không tài nào phân biệt được.
Giờ
phút này, “hai thằng nhóc áo đen” đang ngồi trong một quán ăn, một người nhìn
chằm chằm vào quyển sách trên tay, người còn lại thì soi mói miếng sườn xào
chua ngọt: “Không đủ ngọt, cần thêm chút mật ong, món này cũng chưa đủ cay,
phải thêm ớt… Kim, anh không ăn hả?”
Damon
cho miếng sườn vào miệng, chớp chớp mắt nhìn hóa đơn trên bàn: “Đây là cả một
tháng lương của tôi đấy.”
Kim
không đáp, chỉ lật sang trang mới.
“Ăn
đi, cho giống con người.” Damon khẽ rướn người về phía trước, che tay thì thầm:
“Nếu không thì những kẻ theo dõi chúng ta mấy hôm nay sẽ nghi ngờ anh đấy, anh
đã không ăn gì suốt năm ngày rồi.”
Lúc
này, Kim mới liếc nhìn Damon, thấy miệng gã dính sốt sườn chua ngọt, lại nhìn
đồ ăn trên bàn. Cuối cùng quý ngài kiệm lời nhặt đũa lên gắp một hạt lạc rang
lên, để cho “giống con người”.
Damon
chán nản buông thìa xuống, vẻ mặt không còn gì luyến tiếc.
Gã
liếm mép: “Anh hỏi được gì chưa?” Vừa nói, gã vừa hất cằm nhìn những người xung
quanh. Tính cảnh giác của người dân ở đây không được cao cho lắm, dù biết hai người
bọn họ là người lạ nhưng vẫn trả lời rất nhiệt tình. Gã và Kim đến đây vào năm
ngày trước, hai người chia ra để thăm dò thông tin từ dân bản địa, sau đó hẹn
gặp nhau ở đây, nhưng từ nãy đến giờ Kim không ăn cũng chẳng nói năng gì khiến
gã cũng hơi tò mò: “Anh hết pin rồi hả?”
“Có
tổng cộng mười một đứa trẻ mất tích, cả bé trai lẫn bé gái, độ tuổi từ năm đến
mười bốn, đứa lớn nhất cũng là người cuối cùng bị mất tích trong thời điểm này,
là cháu gái của chủ quá ăn… này.” Kim liếc nhìn về phía quầy tính tiền, chỉ có
một cô nhân viên mặc tạp dề ngồi thừ ra ở đó, dù trông có vẻ là thu ngân chuyên
nghiệp nhưng từ khi anh bước vào đây, người này đã tính nhầm không dưới mười
lần: “Đó là mẹ của nạn nhân.”
Damon
nhướng mày: “Chà…”
“Nhiệm
vụ của cậu.” Kim lật thêm một trang sách, liếc nhìn thân người nhỏ nhắn chỉ cao
khoảng một mét kia, không phải Damon lùn mà hiện giờ gã đã biến thành một đứa
nhóc học sinh tiểu học, mắt mèo tròn xoe, trông tinh nghịch và thơ ngây không tả
nổi…
Kế
hoạch ban đầu của bọn họ là để Damon làm mồi dụ kẻ bắt cóc xuất hiện, thế nên bọn
họ cần phải biết những đứa trẻ kia đã từng mất tích ở đâu, trong khung giờ nào,
khi đó bên cạnh chúng có những ai.
Damon
đung đưa hai cái chân ngắn ngủn, cảm thấy bất lực vì bị sử dụng như nhân lực
trẻ em: “Tại sao không phải là anh biến thành con nít mà là tôi?”
“Cậu
nhờ tôi.” Kim đáp ngắn gọn, lại nhón thêm một hạt lạc rang: “Phụ nữ thường giàu
lòng trắc ẩn với trẻ em, nhưng cậu không được vì thế mà lợi dụng người khác đâu
đấy.”
Anh
chộp lấy tay Damon trước khi gã dợm bước về phía người thu ngân kia, chạm vào
hình xăm vòng tròn trên mu bàn tay gã. Damon vội vã rụt tay lại trước khi Kim
cảnh cáo mình, gã sờ sờ hình xăm kia, sợ tên này lại đọc chú gì đó khiến mình
đau đớn: “Biết rồi, tôi cũng đâu phải con nít thật.”
Khi
Damon đến gần người thu ngân kia cũng là lúc một bóng người đi lướt qua mặt gã,
gã nhận ra đó là cô con gái từng bị bắt cóc – đã được tìm về chiều hôm qua. Người
mẹ thấy con mình đi ngang qua trước mắt, bà ta vội vã nắm tay con gái: “Con đi
đâu đấy?”
Cô
bé đứng lại, chẳng nói chẳng rằng, chỉ nhìn chằm chằm về phía trước.
“Lindsay?”
Người mẹ gọi tên con mình với ánh nhìn lo lắng, cuối cùng bà ta ra hiệu cho người
hầu trong nhà dìu cô bé lên lầu: “Nếu cần đi đâu, mẹ có thể đi cùng con.”
“Mẹ
còn bận việc, con tự đi được.” Cô bé đáp, vẫn không chú ý đến mẹ mình, như thể
ở ngoài cửa có thứ gì đó hấp dẫn hơn nhiều: “Con chỉ đến thư viện trả sách
thôi.” Nói rồi, Lindsay còn giơ hai quyển sách mình đang cầm trong tay.
Ở
thị trấn này có một thư viện nhỏ nằm ở gần quảng trường trung tâm, mượn sách ở
đó là thói quen hằng tuần của Lindsay, nhưng cũng trong cái lần cô bé đi mượn
sách, cô bé đã bị bắt cóc, thế nên vừa nghe đến hai chữ thư viện là người mẹ
giãy lên ngay: “Không được! Mẹ không cho phép con tới đó! Mẹ sẽ trả sách giúp
con…”
Nghe
đến đây, cô bé lại không cố chấp muốn tới thư viện mà quay đầu đi lên phòng.
Người
mẹ sững sờ trong giây lát rồi ôm mặt khóc, người hầu bên cạnh chỉ biết an ủi
bà.
“Từ
lúc Lindsay về đây là thế.” Damon đi một vòng, rồi quay lại bàn ăn. Chiều cao có
giới hạn khiến gã gặp khó khăn trong việc trèo lên ghế, Kim bèn túm sau cổ áo
nhấc gã lên hộ: “Cảm ơn anh, cô bé cứ đờ ra, như những đứa trẻ khác, và đặc
điểm chung của chúng là cực kỳ nghe lời người lớn.”
Gã
nhoài người lên bàn ăn, ra vẻ bí ẩn: “Chỉ cần người lớn yêu cầu chúng làm gì,
chúng sẽ nghe theo, nhưng vì thế nên người mẹ mới đau lòng, vì thường ngày
Lindsay là một cô bé rất cứng đầu và có chính kiến của riêng mình.”
“Bà
ấy cho rằng có thứ gì đó đang ở bên trong Lindsay, đang điều khiển cô bé.”
End Chap 2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét