“Tôi có thể cầu xin sự tha thứ của Đức Thánh hay không?”
Người
thanh niên đeo kính đang ôm chồng sách, nghe có người nói chuyện, anh quay đầu
lại.
Trong
bóng tối nhạt nhòa, một người phụ nữ ngồi trên chiếc ghế gỗ ọp ẹp ở sát cửa sảnh
chính của tòa thánh, ánh sáng nhập nhoạng tỏa ra tù ngọn đèn treo tù mù chỉ đủ
để soi rọi mái tóc xoăn ướt sũng ánh lên một sắc đỏ nâu quen thuộc.
Người
dân của xứ Babel đều sở hữu màu tóc đỏ như vậy, hầu như là toàn bộ, chỉ có
những kẻ nhập cư như anh mới có màu tóc đen.
Giọng
nói run rẩy chìm trong bóng đêm được một chốc, khi bầu không khí im lặng sắp
bóp nghẹt cổ họng người phụ nữ nọ, anh lặng lẽ đưa mắt nhìn bức tượng thờ trên
cao rồi mới lên tiếng: “Tôi không phải Giáo hoàng.”
“Tôi,
tôi biết…” Cô ta thì thào đôi chữ, lầm bầm thứ âm thanh kì lạ nào đó: “Tôi chỉ
mong sự tha thứ đến từ Đức Thánh, ngài ấy luôn bao dung cho con dân của ngài,
đúng không? Giáo hoàng, Giáo hoàng là người kết nối với ngài ấy, ông ta cũng chỉ
là người phàm…”
“Tôi
cũng là người phàm.” Anh ngắt lời: “Nếu cô không tin lời người phàm, việc gì
phải hỏi tôi?”
Lại
là một khoảng lặng kéo dài, mãi cho đến lúc tiếng chuông ngân lên lần nữa, cô
ta mới đứng dậy lùi ra ngoài cửa. Một vệt nước kéo dài từ nơi người phụ nữ này
ngồi cho đến tận cửa, kèm theo vài lá rong rêu sẫm màu, thấm vào kẽ gạch cũ kĩ
trong tòa thánh.
Suýt
chút nữa thì Damon đã giẫm phải thứ rong rêu trơn nhớt kia.
Gã
vẫn mặc một bộ quần áo đen sì như trước, buộc một chiếc khăn quàng cổ màu đỏ
với họa tiết trắng tinh, nhấc đôi bốt da cố gắng tránh né vệt nước tanh hôi
kia, gã nhíu mày đánh giá: “Tôi nhớ là anh ở sạch hơn tôi cơ, không định dọn
à?”
Gã
tìm một băng ghế, đủng đỉnh đặt mông lên.
“Kim?”
Kim
đặt chồng sách xuống bàn làm việc, cho từng quyển vào tủ, thờ ơ không phản ứng
gì. Mãi một lúc sau, anh mới lên tiếng: “Ngồi ngay ngắn vào.”
Damon
lập tức sửa dáng ngồi xiêu vẹo nghiêng lệch, gã rất cảm động vì có người lo
lắng cho cột sống của mình, tiếc là gã đâu còn cột sống: “Nghe nói gần đây anh
nhàn lắm, tôi cũng ghé qua xem anh sống thế nào. Đã mấy mươi năm rồi mình không
gặp nhau, gặp nhau rồi lại thấy khó lìa xa.”
Gã
bắt đầu ngân nga một giai điệu thịnh hành nào đó, và cũng kịp im mồm trước khi
Kim đóng sập cửa tủ lại: “Thật ra tôi có chuyện cần nhờ.”
Kim
cụp mắt tra chìa khóa vào ổ. Ổ khóa này đã cũ, có khóa hay không thì cũng thế
nhưng Kim vẫn làm như thể đây là hoạt động thường ngày, có trong thời gian biểu
của mình: “Để tôi nhắc lại…”
“Để
tôi nhắc lại cho cậu biết, đây là tòa thánh Babel, là vùng đất tôn giáo được
cai quản bởi Đức Thánh Babylon, được cấp phép hoạt động vào hơn một trăm năm
trước, mục đích thành lập là để có không gian nuôi dưỡng tín ngưỡng và sinh
hoạt cộng đồng cho người dân xứ Babel…” Damon cắt ngang lời anh, tuôn một tràng
làu làu như thể đây là quốc ca của gã, tất cả là vì chứng minh rằng gã đã nghe
quá nhiều lần chứ không phải dạt dào thắm thiết gì. Trông gã không vui như lúc
nãy nữa: “Tôi phải trông cậy gì vào một tòa thánh có tuổi đời còn nhỏ hơn mình,
hả Kim?”
Dứt
lời, gã đứng dậy, nhấc chân giẫm qua những băng ghế, huênh hoang và hiên ngang
như một con sư tử đầu đàn thị uy với muôn loài - nhưng bây giờ con sư tử này
phải chạy tới đây để nhờ vả một tên giáo sinh… không, Kim còn chẳng đủ tư cách
để làm giáo sinh, anh chỉ là người canh giữ tòa thánh này.
Damon
vô cùng vô cùng vô cùng bất mãn với thái độ ù lì của Kim, gã bắt buộc phải làm
cái gì đó để cái tên hũ nút này có thể phun châu nhả ngọc thêm một chút: “Bộ
anh không chải răng hay sao mà ngại nói chuyện vậy? Đã không nói chuyện bằng
mồm được thì ta nên nói bằng tay, nhỉ?”
Miệng
thì bảo là tay nhưng vừa hết câu mà gã đã sấn lên, tăng tốc rồi lao tới tung
cước đá vào mặt người thanh niên đeo kính kia. Để đánh lạc hướng, gã còn cố ý
chộp lấy bình hoa trên bàn, thấy anh né được đòn đầu tiên, gã nhếch miệng cười
rồi bổ nhào vào người anh, vung tay lên cao muốn đập bình hoa vào đầu anh.
Kim
nhấc khuỷu tay thụi cho Damon một cú trời giáng, gã giật bắn người nhưng vẫn cố
chấp muốn phá hủy cái bình. Nhưng rồi chỉ trong thoáng chốc, Kim đã túm được cổ
tay gã, vô hiệu hóa đòn đánh thứ hai, cứu rỗi cái bình thành công và đồng thời
cũng đáp trả Damon bằng một đòn lên gối khiến gã tái mặt.
Damon
bị đánh lùi ra sau, ôm bụng thở dốc một lát. Gã vô thức sờ sờ lên cổ, cuối cùng
chỉ đành chống tay vịn vào tường mà than thở: “Chẳng phải anh muốn tích công
đức à? Tôi đang tìm việc tốt để anh tích công đức đây… ấy, anh khoan thượng
cẳng tay, chúng ta đều là người nhà mà.”
“Tôi
không phải người nhà của cậu.”
Kim
như mèo bị giẫm phải đuôi, cuối cùng trên gương mặt lạnh nhạt thờ ơ kia cũng ánh
lên chút khó chịu. Như nhớ lại ký ức nào đó, anh xoa trán, chỉ ra cửa: “Cút đi,
trước khi tôi đá cậu ra khỏi đây.”
“Lần
này tôi nghiêm túc đấy.”
Damon
cố nhịn cái bụng đau, giơ hai tay lên đầu hàng: “Có người cần anh giúp đỡ, mà
tôi thì không giúp được vì không đủ năng lực…”
Cuối
cùng cũng nhận được sự chú ý của Kim, Damon nhếch môi cười cười, giơ bàn tay đã
gần như trở nên trong suốt của mình lên trước ánh nến mờ ảo: “Tôi không còn
nhiều thời gian nữa.”
…
Ban
đầu, vấn đề cũng không có gì phức tạp.
Ở
vùng ven sông Babel có vài hộ gia đình phát hiện gần đây có rất nhiều xác mèo
hoang chết nằm dọc đường. Chuyện sẽ chẳng có gì đáng sợ nếu những chú mèo đó
đều là mèo đen, chúng chết bằng hình thức hết sức thảm khốc, hai mắt và nội
tạng bị moi ra hệt như là nạn nhân của môt loài thú dữ nào đó.
Sợ
con người cũng sẽ bị tấn công nên những gia đình này đã mời một vị thuật sĩ từ
nơi khác tới đây – lý do tại sao bọn họ không tìm chính quyền mà lại tìm thuật
sĩ? Chỉ đơn giản vì cảnh sát sẽ không quan tâm tới cái chết của động vật nào
khác trừ con người, trước đây cũng đã từng có tiền lệ như thế rồi.
“Cứ
mười năm một lần… đều xảy ra một số vụ giết mèo như thế. Không chỉ mèo mà còn
có gia súc, nhưng mấy năm gần đây gia súc đã được chuyển đến khu vực khác nên…”
Trước mặt thuật sĩ, người phụ nữ lấm tấm vết chân chim trên khóe mắt ngập ngừng
thì thào, như sợ thế lực vô hình nào đó, bà ta cứ do dự mãi, toan đứng dậy bỏ
ra ngoài không chỉ một lần.
“Bà
cứ chậm rãi thôi, không cần phải sốt ruột.”
Thuật
sĩ là một người đàn ông trung niên đã quá tứ tuần nhưng trông vẫn phong độ và
trí thức, ít nhất là ở vùng Babel này, hiếm ai có được một người có vẻ ngoài
tao nhã như ông ta. Có lẽ cũng vì thế nên dù người này hành nghề thuật sĩ, vẫn
có rất nhiều người lầm tưởng ông ta là đại diện đại biểu giáo dục nào đó, rất
đáng tin cậy.
Chẳng
qua, người này bị mù.
Da
mắt của ông ta như bị kết dính bởi một cơn hỏa hoạn nào đó, nhìn tổng thể có vẻ
ghê rợn nên ông ta thường dùng khăn che mắt mình lại. Vì lý do này nên thuật sĩ
cũng ít khi ra ngoài, không hay giao tiếp với ai, muốn tìm tới nhà ông ta cũng
khá là gập ghềnh trắc trở, mời về đây được rồi phải gọi là kỳ công.
Được
trấn an cảm xúc, người phụ nữ nhìn người nhà ngoài cửa với ánh mắt e ngại, rồi nói:
“Đêm qua con trai tôi nằm mơ thấy một con mèo đen… có thân mèo mặt người, nó
gào khóc nói với con tôi là chúng nó sắp bị giết, chúng nó không hề làm hại ai…
chẳng qua chỉ là sinh ra với một bộ lông đen mà thôi.”
Mèo
đen, trong tín ngưỡng văn hóa phong kiến châu Á cổ đại thì mèo đen thường mang
điềm gở, đại diện cho thế lực tà ác, thế nên cũng có khá nhiều người kiêng kị
việc nuôi mèo đen, thậm chí là xua đuổi mỗi khi thấy chúng. Mà trong thời gian
mèo đen bị giết hại, cũng có rất nhiều chuyện kì lạ xảy ra quanh khu vực này,
ví dụ như mấy đứa trẻ con trong vùng bỗng dưng mất tích một vài ngày rồi quay
về nhà như chưa từng có chuyện gì xảy ra, chúng cũng không nhớ gì về khoảng
thời gian mình mất tích – đã gặp ai, làm chuyện gì… chúng chỉ nhớ là có người hát
ru cho chúng ngủ.
“Và
cả chuyện vụ mùa thất bát nhưng hoa cỏ thì lại tươi tốt…” Người phụ nữ thì
thào, nom có phần e ngại: “Rau củ quả thu hoạch được héo rũ cả ra, nhưng mấy
vườn hoa của lão Jayden ở cuối thôn lại vô cùng sum xuê… người ta đồn lão đang
phù phép gì đó cho vườn hoa, vì trước đây gia đình của lão Jayden từng có
truyền thống hành nghề trừ tà.”
Thuật
sĩ nghe xong câu chuyện, ông ta nghiêng tai lắng nghe, nhắm mắt nghĩ ngợi một
lát: “Ta nghe gió nói, tất cả đều vô tội.”
End Chap 1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét